Không giống với hương thơm của bột gạo, tôm cháy trong chiếc bánh bèo nổi tiếng đất kinh kỳ - xứ Huế;sự hoà quyện của bột gạo, thịt nạc và mộc nhĩ trong bánh bèo của “Đất cảng” Hải Phòng. Hay chiếc bánh nhỏ nhắn đựng trong lớp lá chuối vuông vuông, được rắc lên trên nhiều hành phi, chấm với nước mắm chua ngọt như ở Nam Định, bánh bèo quê tôi (xã Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam) chỉ gồm những nguyên liệu đơn giản, dễ tìm nhưng lại có một sức sống mãnh liệt trong tâm trí của bất cứ ai đã từng thử qua.
Để ăn được bánh bèo thì cũng phải “khổ công” lắm, phải chịu khó đến chợ Chủ (Ngọc Lũ) từ sớm, “canh me” đợi đến lượt mua hàng. Phiên chính của chợ Chủ là các ngày 2, 5, 7, 9, được mở trên một vùng đất rộng lớn. Cả chợ rộng như vậy nhưng chỉ có duy nhất một gian bánh bèo – gian bánh bèo của bác Vụ.
Gọi là gian hàng nhưng thực ra chỉ có một chiếc thúng tre và một thùng xốp to đựng hơn 1000 chiếc bánh bèo nhỏ xinh, trắng mịn. Bác Vụ theo nghề này đã hơn 30 năm, là “thợ lành nghề”. Bác bán bánh vào phiên chợ chính và Chủ nhật, từ lúc 6h sáng. Khách mua hàng thường là người dân xã Ngọc Lũ, Bồ Đề, An Nội, Hưng Công. Họ mua với số lượng lớn nên chỉ tầm 30 phút đến 1 tiếng đồng hồ là bánh đã được bán sạch.
Làm bánh bèo không quá phức tạp nhưng cần khéo léo cùng sự tập trung, tỉ mẩn. Có lẽ vì vậy mà ít người muốn làm. Trước hết là việc cắt lá gói bánh. Theo tôi được biết, phải khéo léo chọn những lá dong tươi, tạo hình và đem đi luộc để lá được dai, khi hấp sẽ giữ bột tốt hơn. Công đoạn hoà bột gạo tẻ là công đoạn khó nhất, đòi hỏi nhiều kinh nghiệm, sự tinh tế của người làm. Bột phải được hoà với nước ấm, khuấy đều tay sao cho không quá loãng hay bị vón cục. Bánh cứng hay mềm sẽ phụ thuộc vào độ đặc/loãng trong bước này. Kế đến, lá dong phải được xếp vào khuôn, đổ một lượng bột vừa đủ vào trong và hấp từ 30-40 phút. Nhân bánh là mỡ hành, được cho sau cùng, khi bánh đã chín. Kỳ công như vậy mà một chiếc bánh chỉ có giá khoảng 1000 đồng. Thế nên, mọi người thường bông đùa với nhau: “Bánh bèo – giá rẻ như bèo”.
Chiếc bánh bèo nhỏ nhắn, được gói trong lớp lá dong vuông vức là món quà vặt quen thuộc của tôi. Còn nhớ ngày nhỏ, mỗi khi thấy mẹ đi chợ về, tôi không khỏi vui mừng mà nói lớn: “Mẹ đi chợ có mua bánh bèo cho con không?”. Mẹ tôi mỉm cười, mở chiếc làn nhựa ra, bên trong khi thì có bắp ngô, chùm ổi, khi thì túi chè thập cẩm, gói kẹo... nhưng không bao giờ thiếu chục chiếc bánh bèo. Bánh bèo mềm dai vừa phải, ngậy ngậy mỡ hành, tan chảy nhẹ nhàng trong miệng khiến người ăn vương vấn mãi. Khi ăn, tôi có thói quen cắt nhỏ bánh, chấm với giấm ớt hoặc tương ớt. Sức hấp dẫn của nhân bánh cùng với chút cay nồng, tê tê nơi đầu lưỡi tạo nên một dư vị khó quên. Không có nước chấm đậm đà như những vùng khác, cách thưởng thức bánh bèo quê tôi chỉ đơn giản vậy thôi nhưng cũng đủ để lại ấn tượng cho người dùng nhờ sự hòa quyện vừa vặn của các nguyên liệu.
Chỉ là thức quà vặt mộc mạc, bình dị, song bánh bèo Ngọc Lũ lại khiến người ta nhớ nhung mãi. Chính tôi, trong khoảng thời gian học tập tại Hà Nội, dù có cơ hội thưởng thức nhiều món ăn, đồ uống hấp dẫnnhưng tâm trí vẫn chỉ hướng về chiếc bánh bèo quê nhà. Giữa nhịp sống tất bật, hối hả nơi thành thị, giữa gắt gao mạch đời, lắm lúc chỉ “thèm” có cơn mưa dịu mát, gia đình xôm tụ nói cười bên đĩa bánh bèo ấm nóng.
Bánh bèo – thức quà dân dã mang hương vị đồng quê đã gắn liền với ký ức tuổi thơ tôi. Không thịt tôm cầu kỳ như những nơi khác, bánh bèo đất Chủ mộc mạc, giản đơn như chính con người nơi đây. Phải chăng, đây không đơn thuần là một món ăn, mà còn gói ghém hương vị quê hương? Cũng có thể coi đây là phong vị cho một vùng quê!
Trà Giang